Biển Chết là gì? Tại sao lại có tên gọi này? Biển Chết ở đâu? Nó có vai trò thế nào cho khu vực? Vì sao nhiều người thường nhắc nhắc biển Chết như một nơi để chữa bệnh?
Sau đây hãy cùng Epacket Việt Nam khám phá qua nội dung sau đây nhé!
Vị trí Biển Chết
Giới thiệu Biển Chết
Biển Chết (tiếng Ả Rập: البحر الميت, tiếng Hebrew: ים המלח) là một hồ nước mặn nằm trên biên giới giữa Bờ Tây, Israel và Jordan trên thung lũng Jordan. Khu vực chứa nước bị hãm kín này có thể coi là một hồ chứa nước có độ mặn cao nhất trên thế giới.
Biển Chết dài 76 km, chỗ rộng nhất tới 18 km và chỗ sâu nhất là 400 m, bề mặt biển Chết nằm ở 417,5 m (1.369 ft) dưới mực nước biển (số liệu năm 2005).
Biển Chết có sức lôi cuốn đặc biệt và các du khách từ các khu vực xung quanh Địa Trung Hải trong hàng nghìn năm qua. Nó là nơi nương tựa của Vua David, một trong các nơi nghỉ ngơi đầu tiên trên thế giới của Herod Đại đế, và là nguồn cung cấp các sản phẩm khác nhau như nhựa thơm cho việc ướp xác của người Ai Cập cho tới bồ tạt để làm phân bón.
Nguồn gốc tên gọi Biển Chết
Trong tiếng Hebrew, biển Chết được gọi là Yam ha-Melah – có nghĩa là “biển muối” hay Yam ha-Mavet – có nghĩa là “biển chết”. Trong quá khứ nó còn có tên gọi là “biển Đông” hay “biển Arava”.
Trong tiếng Ả Rập biển Chết được gọi là Al Bahr al Mayyit – có nghĩa là “biển Chết” – hay ít phổ biến hơn là Bahr Lūţ – có nghĩa là “biển của Lot”.
Trong lịch sử thì tên gọi theo tiếng Ả Rập khác là “biển Zoar”, lấy theo tên gọi của khu đô thị gần đó. Đối với người Hy Lạp thì biển Chết là “hồ Asphaltites”
Lịch sử tự nhiên Biển Chết
Biển Chết nằm trong đứt gãy Biển Chết, nó là một phần của vết nứt dài trên bề mặt Trái Đất có tên gọi Đại Thung Lũng. Đại Thung Lũng dài 6.000 km (3.700 dặm) kéo dài từ dãy núi Taurus ở Thổ Nhĩ Kỳ tới thung lũng Zambezi ở miền nam châu Phi. Đại Thung Lũng được hình thành từ thời kỳ thế Miocen (5,3-23 triệu năm trước trong Phân đại đệ tam) do kết quả của sự chuyển dịch của đĩa kiến tạo Arabia về phía bắc và sau đó về phía đông ra xa khỏi châu phi.
Khoảng 3 triệu năm trước thì cái mà ngày nay là thung lũng sông Jordan, biển Chết và Wadi Arabah/Nahal Arava đã liên tục bị tràn ngập nước từ Địa Trung Hải. Nước đã tạo ra một vịnh hẹp và quanh co, thông ra biển cả bằng cái mà ngày nay là thung lũng Jezreel. Các trận ngập lụt ở thung lũng này lên và xuống phụ thuộc vào các thay đổi khí hậu trong một thời gian dài. Hồ bị chiếm giữ bởi đứt gãy Biển Chết có tên gọi là “hồ Sodom”, tạo ra các lớp muối trầm tích mà cuối cùng dày tới 3 km (2 dặm).
Theo thuyết địa chất, khoảng 2 triệu năm trước các vùng đất nằm giữa Đại Thung Lũng và Địa Trung Hải được nâng lên đến mức mà đại dương không còn khả năng gây ngập úng cho khu vực này nữa. Vì thế, vịnh dài đã trở thành một hồ dài.
Hồ thời tiền sử này có tên gọi “hồ Gomorrah”. Hồ Gomorrah đã từng là hồ nước ngọt hay nước lợ dài ít nhất 80 km (50 dặm) vè phía nam của phần kết thúc hiện tại của biển Chết và 100 km (60 dặm) về phía bắc, vượt qua cả vùng đất lún Hula ngày nay. Khi khí hậu trở nên khô cằn hơn, hồ Samra co lại và trở nên mặn hơn. Hồ lớn chứa nước mặn là tiền nhiệm của biển Chết có tên gọi là “hồ Lisan”.
Trong thời tiền sử một lượng lớn trầm tích đã tích tụ lại dưới đáy hồ Gomorrah. Các trầm tích này nặng hơn so với muối trầm tích và ép cho các trầm tích muối trồi lên trên vào cái ngày nay gọi là bán đảo Lisan và đỉnh Sedom (ở phía tây nam của hồ). Các nhà địa chất giải thích hiệu ứng này theo kiểu thùng bùn trong đó các tảng đá phẳng lớn được xếp đặt và ép bùn to lên trên theo các vách của thùng”. Khi đáy biển Chết tụt xuống sâu hơn nữa do các lực kiến tạo thì các đỉnh núi chứa muối ở Lisan và đỉnh Sedom đã nằm tại các khu vực trên các vách đá cao. (Xem các đồi muối)
Thời kỳ khoảng 23.000 đến 18.000 năm trước là một thời kỳ rất khô hạn và mức nước bề mặt của hồ Lisan tụt xuống tới điểm còn thấp hơn cả bề mặt biển Chết ngày nay. Ở mức thấp nhất của hồ này thì bề mặt của nó đã nằm ở cao độ dưới 600 m (2.100 ft) so với mực nước biển.
Khoảng 12.000 năm trước thì mức nước trong hồ Lisan nhỏ bé đó bắt đầu dâng lên. Khoảng vài ngàn năm trước thì biển Chết đã chỉ lớn bằng khoảng khu vực lòng chảo phía bắc ngày nay của nó. Khu vực lòng chảo phía nam đã không tồn tại cho đến tận cuối thời Trung cổ.
Phần phía bắc của biển Chết nhận được chỉ khoảng 100 mm (4 inch) nước mưa trong một năm. Phần phía nam còn ít hơn (50 mm hay 2 inch). Sự khô cằn của khu vực biển Chết là do hiệu ứng chặn mưa của dãy núi Judea. Khu vực cao nguyên ở phía đông biển Chết nhận được lượng mưa lớn hơn so với biển Chết.
Các dãy núi ở phía tây – dãy núi Judea – có độ dốc đứng từ phía biển Chết thấp hơn so với các dãy núi ở phía đông. Các dãy núi phía đông cũng cao hơn. Dọc theo phía đông nam của hồ là dãy đồi cao 210 m (700 ft) chứa muối gọi là “đỉnh Sedom”.
Biển chết trở thành nơi “nghiên cứu và điều trị” sức khỏe
Cho đến tận mùa đông năm 1978 – 1979, biển Chết bao gồm hai lớp nước phân tầng có nhiệt độ, tỷ trọng, niên đại và độ mặn phân biệt. Khoảng 35 m trên cùng (hoặc cao độ khác tương tự) của biển Chết có độ mặn nằm trong khoảng 30-40% và nhiệt độ nằm trong khoảng 19 °C (66 °F) và 37 °C (98 °F). Phía dưới lớp chuyển tiếp thì nước biển Chết có nhiệt độ ổn định khoảng 22 °C (72 °F) và bão hòa natri clorua (NaCl). Do nước ở gần đáy là bão hòa nên muối lắng đọng ra khỏi dung dịch vào lớp đáy biển.
Từ đầu những năm thập niên 1960 nước chảy vào biển Chết từ sông Jordan đã giảm đi do kết quả của việc thủy lợi hóa lớn và do có ít mưa nói chung. Vào năm 1975 thì lớp nước trên cùng của biển Chết trên thực tế còn mặn hơn so với lớp thấp hơn. Tuy nhiên lớp nước trên cùng vẫn lơ lửng phía trên lớp dưới do nước của nó ấm hơn và vì thế nhẹ hơn. Khi lớp nước trên bị lạnh đi đến mức tỷ trọng của nó lớn hơn so với lớp dưới thì nước của biển Chết, sau nhiều thế kỷ, cuối cùng đã trộn lẫn và hồ nước này là một khối nước đồng nhất. Kể từ đó, sự phân tầng bắt đầu được quy hoạch lại.
Hàm lượng khoáng chất trong nước của biển Chết là khác đáng kể so với nước của các đại dương, nó chứa khoảng 53% chloride magiê (MgCl2), 37% chloride kali (KCl) và 8% chloride natri (NaCl, muối ăn) với phần còn lại (khoảng 2%) là dấu vết của các nguyên tố khác.
Nồng độ các ion SO4 là rất thấp, và nồng độ các ion brom là cao nhất so với các nguồn nước khác trên Trái Đất. Các ion chloride trung hòa phần lớn các ion calci trong biển Chết và xung quanh nó. Trong khi tại các khu vực biển khác và trong đại dương thì NaCl chiếm khoảng 97% thành phần khoáng chất, còn tại biển Chết thì lượng NaCl chỉ chiếm khoảng 12–18%. Nhiệt độ nước tăng từ 19 °C (tháng Hai) tới 31 °C (tháng Tám).
Nước biển Chết chứa khoảng 21 khoáng chất, bao gồm magiê, calci, brom và kali. 12 trong số các khoáng chất này không tìm thấy trong các biển/đại dương khác, và một số trong chúng được ghi nhận là có ảnh hưởng tới cảm giác thư giãn, bổ dưỡng da, trị các vấn đề về da (như: chàm, vảy nến, hắc hào, ghẻ lỡ, và mụn), hoạt động của hệ tuần hoàn và làm giảm nhẹ bệnh thấp khớp cũng như các rối loạn trao đổi chất. So sánh thành phần hóa học của biển Chết với các hồ/đại dương khác chỉ ra rằng nồng độ muối của biển Chết là 31,5% (có dao động). Do độ cao bất thường về độ mặn của nó nên người ta có thể nổi trong biển Chết khá dễ dàng nhờ tác dụng của sức nổi. Trong ngữ cảnh này thì biển Chết là tương tự như Hồ Muối Lớn (Great Salt Lake) ở Utah, Hoa Kỳ. Nước biển Chết gây ra cảm giác trơn nhờn. Nước này tạo ra cảm giác cay và có thể gây ra thương tích khi lọt vào mắt.
Một trong các thuộc tính bất thường của biển Chết là sự tiết ra nhựa đường. Từ các độ sâu, biển Chết liên tục phun ra các cục nhỏ chất màu đen này. Sau các trận động đất, các tảng nhựa đường to như các ngôi nhà có thể được tạo ra.
Khu vực biển Chết đã trở thành một trung tâm nghiên cứu sức khỏe và điều trị lớn vì một số lý do. Hàm lượng khoáng chất của nước, tỷ lệ rất thấp của các loại phấn hoa và các chất gây dị ứng khác trong không khí, tỷ lệ bức xạ tia cực tím thấp trong ánh nắng Mặt Trời và áp suất khí quyển cao ở độ sâu lớn này có các tác động đặc biệt tới sức khỏe. Ví dụ những người bị suy giảm các chức năng thuộc hệ hô hấp do các loại bệnh như xơ hóa u nang dường như thu được lợi ích nhờ áp suất khí quyển cao.
Một vài điều thú vị về Biển Chết
Sau đây là một vài điều thú vị về Biển Chết mà có thể bạn chưa biết:
Biển chết có được tắm không?
Nước Biển Chết không chỉ là nơi du khách đến tắm biển, mà còn được coi là một loại thần dược có khả năng chữa trị nhiều bệnh tốt đến kỳ diệu. Hàng năm, hàng ngàn du khách đổ về vùng biển này để trải nghiệm cảm giác đặc biệt của việc nổi trên mặt nước, cũng như kiểm nghiệm sức nổi không giống bất kỳ nơi nào khác.
Biển Chết chứa đựng tới 21 loại khoáng chất khác nhau như magiê, calci, brom, và kali. Điều đặc biệt là có 12 trong số 21 khoáng chất này không thể tìm thấy ở bất kỳ biển và đại dương nào khác trên thế giới.
Những khoáng chất này được xác định là mang lại cảm giác thư giãn cho người tắm, cung cấp dưỡng chất cho da, và có tác dụng điều trị một loạt vấn đề về da như chàm, hắc lào, ghẻ lỡ, vẩy nến, và mụn. Ngâm mình trong nước Biển Chết có thể cải thiện hệ tuần hoàn máu, ổn định sự trao đổi chất, và giúp giảm triệu chứng bệnh thấp khớp.
Bùn khoáng từ Biển Chết cũng được biết đến với khả năng làm đẹp và làm mịn da. Chính vì thế, nữ hoàng Cleopatra đã sử dụng nước biển này để tạo ra một không gian spa tự nhiên cho chính mình, giúp duy trì vẻ đẹp của bà mà không cần đến các phương pháp làm đẹp phức tạp
Chúng ta có sợ chết đuổi ở biển chết không
Dù có khả năng nổi trên mặt nước do tỉ trọng nước biển cao hơn tỉ trọng cơ thể, nhưng Biển Chết vẫn mang theo nhiều nguy cơ đối với những người tắm biển do sự kháng cự của nước mặn và các vấn đề về an toàn. Sự co lại của Biển Chết đang là một vấn đề nghiêm trọng và được quan tâm bởi cộng đồng quốc tế.
Như bạn đã đề cập, một trong những nguyên nhân chính là sự khai thác quá mức của các nguồn nước chảy vào Biển Chết, đặc biệt là sông Jordan, để phục vụ cho các mục tiêu nông nghiệp và công nghiệp. Điều này đã làm giảm lượng nước chảy vào biển, gây ra hiện tượng mất cân bằng và dẫn đến sự co lại của biển.
Tình trạng này đang được các chính phủ và tổ chức môi trường quốc tế quan tâm và nỗ lực để tìm giải pháp bảo vệ và khôi phục Biển Chết
Những sự thật của biển Chết
Một số sự thật không tưởng của biển Chết như:
- Biển Chết không phải là biển mà là hồ nước mặn: Điều này thể hiện tính độc đáo của nó trong ngữ cảnh địa lý và hóa học. Điều này chứng tỏ sự khắc nghiệt của nó đối với sự sống.
- Không có sự sống: Hàm lượng muối và chất khoáng quá cao khiến cho hầu hết các loại sinh vật không thể sống được. Điều này là một ví dụ cụ thể về tác động của môi trường đối với sự sống.
- Nữ hoàng Cleopatra: Thông tin này liên quan đến lịch sử và văn hóa của vùng Biển Chết. Sự thích thú của Nữ hoàng Cleopatra đối với nó thể hiện tính giá trị của Biển Chết trong lịch sử.
- Nổi trên mặt nước: Khả năng nổi trên mặt nước do tỉ trọng của nước cao hơn tỉ trọng của cơ thể con người là một hiện tượng hóa học đặc biệt của Biển Chết.
- Nước từ sông Jordan: Điều này liên quan đến nguồn cung cấp nước của Biển Chết và vấn đề liên quan đến việc chuyển hướng nguồn nước từ dòng sông vào các quốc gia khác.
- Muối và khoáng chất: Thông tin này thể hiện giá trị kinh tế của Biển Chết và cách mà người dân sử dụng nó để tạo ra sản phẩm.
- Khi hậu và độ cao: Thông tin này giúp hiểu về môi trường xung quanh Biển Chết và cách nó ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển khu vực này.
- Các cuốn sách Biển Chết: Thông tin này liên quan đến khám phá lịch sử và văn hóa của Biển Chết, đặc biệt là Cuốn sách Biển Chết, một phát hiện quan trọng về văn bản cổ xưa.
- Tuổi đời của Biển Chết: Thông tin này cho biết về lịch sử tự nhiên và độ lâu đời của Biển Chết.
- Muối từ Biển Chết có khả năng trị nhiều vấn đề về sức khỏe: Điều này thể hiện cách các tài nguyên tự nhiên có thể được sử dụng trong việc chăm sóc sức khỏe và làm đẹp.
Tất cả những điểm này cung cấp cái nhìn chi tiết và phức tạp hơn về sự độc đáo của Biển Chết, cách nó ảnh hưởng đến môi trường và con người, cũng như giá trị lịch sử và văn hóa của nó
Đa dạng sinh học tại Biển Chết
Biển Chết được gọi là “Chết” do độ mặn quá cao của nó làm cho cá hay các thủy sinh vật lớn khác không thể sinh sống trong lòng hồ của nó, tuy nhiên, một lượng rất nhỏ vi khuẩn và nấm mốc có thể tồn tại.
Cá theo sông Jordan bơi vào biển Chết sẽ chết rất nhanh khi nước ngọt bị trộn lẫn với nước siêu mặn của biển Chết. Tuy nhiên, quá trình pha trộn này không diễn ra ngay lập tức và đôi khi nước ngọt có thể nổi vô hạn định trên bề mặt biển Chết. Vì thế, đôi khi cá có thể sống ngay trong lớp nước phía trên cùng của bề mặt của biển Chết trong vài ngày, mặc dù không bao giờ chúng có thể sống trong biển Chết “thực thụ”.
Trong thời gian ngập lụt thì nồng độ muối của biển Chết có thể tụt từ mức thông thường của nó là 35% xuống 30% hay thấp hơn. Trong các mùa đông nhiều mưa thì biển Chết nhất thời cũng có sự sống. Năm 1980, sau một mùa đông có mưa như thế, biển Chết thông thường có màu xanh sẫm đã chuyển thành màu đỏ. Các nghiên cứu của Đại học Hêbrơ phát hiện ra rằng biển Chết có rất nhiều tảo gọi là Dunaliella. Dunaliella trong lượt mình lại nuôi các loại vi khuẩn ưa muối có chứa sắc tố màu đỏ chứa carotenoid mà sự có mặt của chúng là nguyên nhân gây ra sự thay đổi màu. Kể từ năm 1980 thì khu vực biển Chết là rất khô và tảo cũng như vi khuẩn đã không thể xuất hiện với số lượng lớn như vậy.
Nhiều loài động vật sinh sống trong các dãy núi xung quanh biển Chết. Người ta có thể nhìn thấy các con lạc đà, dê rừng, thỏ, chó rừng, cáo và thậm chí cả báo hoa mai. Cả Jordan và Israel đã thành lập các khu bảo tồn xung quanh biển Chết. Có hàng trăm loài chim cũng sinh sống trong khu vực này.
Vùng châu thổ sông Jordan khi xưa đã từng là một rừng rậm nhiệt đới của cói và cọ. Flavius Josephus đã miêu tả Jericho như là “nơi màu mỡ nhất ở Judea”. Trong thời kỳ La Mã và Byzantin thì các loại cây như mía, lá móng và sung dâu đã mọc dày dặc trong vùng hạ lưu thung lũng Jordan. Một trong các sản phẩm có giá trị được sản xuất ở Jericho là nhựa của cây linh sam, mà từ đó người ta đã sản xuất ra nước hoa.
Vào thế kỷ 19 thì sự màu mỡ của Jericho đã là chuyện của quá khứ.
Lịch sử con người với Biển Chết
Lịch sử loài người của khu vực biển Chết theo mọi cách nhìn đều dẫn đến thời cổ đại xa xưa. Ngay phía bắc của biển Chết là Jericho, khu vực đô thị cổ nhất liên tục có người sinh sống trên thế giới. Ở một nơi nào đó, có lẽ nào bên bờ phía đông nam của biển Chết, là các đô thị đã được đề cập tới trong cuốn Chúa sáng tạo ra thế giới, và đã bị hủy diệt trong thời đại của Abraham: Sodom và Gomorra và ba “thành phố của Đồng bằng” khác. Vua David đã trốn tránh khỏi sự truy đuổi của Saul tại Ein Gedi ở gần đó.
Những người Hy Lạp cổ đại gọi biển Chết là “hồ Asphaltites”, do nhựa đường xuất hiện một cách tự nhiên. Aristotle đã viết về vùng nước khác thường này. Trong thời kỳ xâm chiếm của người Ai Cập người ta tin rằng Nữ hoàng Cleopatra đã có các đặc quyền để xây dựng các xưởng sản xuất mỹ phẩm và dược phẩm trong khu vực. Sau này, người Nabatea đã phát hiện ra giá trị của bitum thu được từ biển Chết là cần thiết đối với người Ai Cập để ướp các xác ướp của họ.
Vua Herod Đại Đế, Giê-su và John Baptêm đã có các mối liên hệ gần gũi với biển Chết và các khu vực xung quanh nó. Trong thời kỳ La Mã thì Essenes định cư ở Qumran trên bờ phía bắc biển Chết. Ở đây, trong các vùng núi đá macnơ mềm thì họ đã đục khoét các hang động lưu trữ cho thư viện của mình. Hai nghìn năm sau thư viện của họ đã được tìm thấy và được đặt tên là “các cuốn sách Biển Chết”.
Vua Herod đã xây dựng một vài cung điện ở bờ tây Biển Chết. Nổi tiếng nhất là Masada, mà vào khoảng thời gian những năm 66–70 thì một nhóm nhỏ những người cuồng tín Do Thái nổi loạn đã đầu hàng trước sức mạnh của quân đoàn La Mã.
Sự cách biệt của khu vực đã hấp dẫn các thầy tu của Chính thống giáo Hy Lạp kể từ kỷ nguyên Byzantin. Các tu viện của họ như Saint George ở Wadi Kelt và Mar Saba trong sa mạc Judea là các điểm hành hương. Các bộ lạc Bedouin đã sống liên tục trong khu vực này và các nhà thám hiểm và các nhà khoa học gần đây đã tới để phân tích các khoáng chất và thực hiện các nghiên cứu trong khí hậu độc nhất vô nhị này. Kể từ những năm thập niên 1960, các du khách từ nhiều nơi trên thế giới cũng đã thám hiểm khu vực biển Chết.
Vào nửa đầu thế kỷ 20, biển Chết cũng bắt đầu thu hút sự quan tâm của các nhà công nghiệp hóa chất, những người thấy rằng biển Chết là mỏ tự nhiên của bồ tạt và brom.
Bảo vệ biển Chết
Dự án kênh đào hai biển là một phương án có thể giúp bảo vệ Biển Chết khỏi sự co lại và giảm độ mặn cao đến mức gây hại cho môi trường.
Dưới đây là một phân tích chi tiết về dự án này:
- Vấn đề sự co lại của Biển Chết: Biển Chết đang nhanh chóng co lại do sự bay hơi chậm và nguồn nước từ sông Jordan bị giảm. Điều này tạo ra nguy cơ nghiêm trọng về môi trường và kinh tế.
- Phương án đưa nước từ Địa Trung Hải và Hồng Hải: Một phương án đưa nước từ các biển lớn này vào Biển Chết thông qua đường hầm hoặc kênh đào đã được đề xuất. Điều này có thể giúp cung cấp nguồn nước tươi cho Biển Chết và điều chỉnh độ mặn.
- Kế hoạch triển khai: Kế hoạch bơm nước từ các nguồn này tới Arava/Arabah ở Aqaba hoặc Eilat, sau đó dẫn nước xuống Biển Chết thông qua kênh đào. Nhà máy khử mặn có thể xây dựng tại Jordan. Điều này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia trong khu vực.
- Lợi ích dự kiến: Nếu triển khai thành công, dự án này có thể sản xuất một lượng lớn nước ngọt và điện năng, giúp cải thiện nguồn nước cho dân cư và nông nghiệp trong khu vực. Đồng thời, nó có thể giảm căng thẳng về nguồn nước và giúp bảo vệ môi trường Biển Chết.
- Hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới: Sự hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới là một phần quan trọng của kế hoạch này, cho thấy sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề môi trường và nguồn nước trong khu vực này.
Dự án kênh đào hai biển có tiềm năng giúp giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến nguồn nước và môi trường ở khu vực Biển Chết, tuy nhiên, việc triển khai thành công sẽ đòi hỏi sự hợp tác và nỗ lực đáng kể từ các quốc gia trong khu vực
Trên đây là một số thông tin về Biển Chết mà Epacket Việt Nam muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu hơn về vị trí địa lý và vai trò của biển Chết với đời sống.
Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các thông tin khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!
Có thể bạn quan tâm: